Thứ ba, những kiến thức dùng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, nên chi bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối. Trong kháng chiến chống Pháp, với mục tiêu xây dựng một nền giáo dục hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc cách tân giáo dục trước hết.
Để điều đó trở thành hiện thực thì không chỉ tạo dựng cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải thay đổi tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cách tân giáo dục đến với học trò).
Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - tầng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai. Nếu không có những người thầy nhiệt huyết, trí não sẽ không có những nhân cách, những nhân kiệt cho giang san. Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. "Muốn thắng trong kinh tế, trước tiên phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ mục tiêu giáo dục.
Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều thế hệ trong một gia đình giữ giàng, chuyền tay nhau học tập. Thứ tư, SGK bây giờ thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình. Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp tri thức, được soạn với mục đích dạy và học. Lần canh tân SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hành một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, soạn tài liệu dạy thí điểm rồi mới làm SGK chính thức.
Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp tục phải hy vọng! nền móng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn mực? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu giải đáp chính xác. Kinh nghiệm từ những lần canh tân giáo dục trong lịch sử cũng như những lần đổi thay SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi". Theo Phó Chủ tịch Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của đay nghiến và cộng đồng".
Thế nhưng đổi thay ra sao, trên nền tảng nào, thực hành vào thời điểm nào… lại là cả vấn đề. Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều tri thức, kể cả thiếu một số môn chủ chốt về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo.
Chúng ta đang giáo dục con người theo cách thụ động. Tuy nhiên, sau một thời gian "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến bữa nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học trò, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho tầng lớp. Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh hết sức khó khăn, nhưng nền móng kiến thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều tài năng phục vụ sự nghiệp phát triển giang sơn.
Đặc biệt, phải xác định rõ đích giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn chung cục trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Tiếp đó, sau 4 năm giải phóng miền Nam thống nhất giang san, năm 1979, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc cách tân giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm.
Không ít kinh nghiệm soạn SGK của nước ngoài đã được tiếp nhận và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã tham dự soạn và giám định bộ SGK này. Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận bây chừ.
Tại sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham gia của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã cương trực nêu lên 6 vấn đề của SGK hiện thời.
Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần canh tân giáo dục phổ biến là một lần… thay đổi sách giáo khoa. Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan yếu trong tiến trình nhận thức của học sinh, chứa đựng hàm lượng căn bản nhất về kiến thức và là nền tảng của tư duy sau này của đời người.
Thứ năm, thiếu tính liên thông về tri thức. Ba cuộc cách tân giáo dục phổ biến đã làm tròn sứ mệnh trong những giai đoạn lịch sử nhất định.
Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học. Nếu chỉ quan tâm đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục nhân cách, lối sống với giáo dục kiến thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hiện.
Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những kiến thức cơ bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng đích đào tạo nguồn nhân công của giang sơn chứ không phải là sự chắp vá, vay hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.
Những cuốn sách giáo khoa đầu tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên cải cách lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học.
Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là nguyên tố để chấn hưng văn hóa, giữ giàng và phát huy các giá trị Việt Nam. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí, GS. Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc canh tân sư phạm.
Thứ sáu, việc tuyển lựa khối lượng và tính chất các đơn vị kiến thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tiễn… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng nhận: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học trò mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là khôn xiết cấp thiết.
Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân thắng lợi tiến về Thủ đô", để hợp nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc cách tân giáo dục mới được tiến hành.
Với một chương trình giáo dục không còn phù hợp với xã hội đương đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì dĩ nhiên phải đổi thay. Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về tri thức nhưng càng ngày càng xa vắng thực tiễn và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học trò; nội dung thay đổi và canh tân quá nhiều trong thời kì ngắn; khâu tổ chức soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khuyết thiếu hoặc quá thừa không chỉ làm phung phá tiền bạc, thời kì mà còn đặt lên vai học trò, đay đả những áp lực không đáng có.
Cốt lõi của giáo dục là dạy người và dạy làm người. Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên tri thức bị phân khúc, tách rời, đứt quãng. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ biến. Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lịch trình cụ thể thì công cuộc canh tân giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các đời người Việt trong tương lai.
Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến bất tận của kiến thức, chẳng thể tiếp tục chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy kiến thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập suy nghĩ và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng nghĩa vụ với đất nước, với dân tộc.
Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khơi gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống tầng lớp.
Thứ hai, SGK hiện định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc tri thức (tỉ dụ, ngoại ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống hiện tại nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).
TS Trần Hồng Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có châm bẩm nghĩ đến chuyện viết lại SGK.
Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ biến 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến.