Đề nghị khách quan trong tình hình mới Theo đánh giá của đại diện Bộ Công an (cơ quan soạn thảo dự án Luật Phòng, chống khủng bố), trong những năm qua, hoạt động khủng bố trên thế giới tiếp chuyện có những diễn biến phức tạp, gây hậu quả nặng nề về tính mạng, sức khỏe con người; tài sản, vật chất cho nhiều nhà nước và vùng lãnh thổ; đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh quốc tế. Hoạt động khủng bố đã có tác động thụ động, tạo ra các thách thức cho Việt Nam trong nhiệm vụ bảo vệ an ninh nhà nước, gìn giữ trật tự, an toàn tầng lớp. Để ngừa, chiến đấu có hiệu quả với hoạt động khủng bố, lực lượng Công an quần chúng. # Đã kết hợp với các bộ, ngành và nhân dân nhân dân khai triển thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Bộ Công an đã chủ động tham vấn cho Đảng, Nhà nước ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, văn bản luật pháp về phòng, chống khủng bố. Dù rằng vậy, các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này còn tản mác, tản mạn ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, hiệu lực pháp lý thấp, chưa đồng bộ, thống nhất. Chính những đòi hỏi khách quan của thực tại đã đặt ra đề nghị cần thiết phải ban hành Luật Phòng, chống khủng bố. Luật Phòng, chống khủng bố được xây dựng trên cơ sở thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ an ninh nhà nước, giữ giàng trật tự an toàn xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập; cương quyết đương đầu với các âm mưu, hoạt động chống phá Việt Nam, hoạt động khủng bố và tài trợ khủng bố. Việc xây dựng luật cũng bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp, sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với chính sách đối nội, đối ngoại của nước ta. Quá trình soạn thảo luật đã tổng kết đầy đủ, toàn diện công tác phòng, chống khủng bố ở nước ta, thu nhận có tuyển lựa kinh nghiệm các nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng luật này sẽ góp phần tạo phạm vi pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác phòng, chống khủng bố và tài trợ cho khủng bố, đảm bảo hạp với thực tại Việt Nam và có tính khả thi. Bố cục và nội dung cơ bản của luật Luật Phòng, chống khủng bố gồm 8 chương, 51 điều. Chương I từ điều 1 đến điều 11, gồm những quy định chung, trong đó nêu rõ: Luật quy định về nguyên tắc, chính sách, biện pháp, lực lượng phòng, chống khủng bố, cộng tác quốc tế và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân chủ nghĩa trong phòng, chống khủng bố. Luật được ứng dụng cho các đối tượng gồm công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam; tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài, người nước ngoài ngụ, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Chương này cũng quy định các nhóm chính sách sẽ được thực hành để đảm bảo hiệu quả của công tác phòng, chống khủng bố như nâng cao năng lực, sức mạnh của các lực lượng chức năng; khuyến khích, huy động sự dự của các tổ chức, cá nhân; nghiêm trị các đối tượng thực hành hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố… Chương II gồm 7 điều, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo phòng, chống khủng bố; lực lượng chống khủng bố; người chỉ huy chống khủng bố; trang bị, vũ khí sử dụng, phương tiện, dụng cụ chống khủng bố… Chương III gồm 9 điều, quy định một số biện pháp căn bản để ngừa khủng bố và tài trợ khủng bố, đó là: Thông tin, tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống khủng bố; quản lý hành chính về an ninh, trật tự; kiểm soát hoạt động liên lạc chuyển vận; kiểm soát giao tiếp tiền, tài sản; kiểm soát dụng cụ, hàng hóa xuất, nhập khẩu, quá cảnh; kiểm soát hoạt động xuất bản, báo chí, bưu chính, viễn thông và kiểm soát các hoạt động bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc phòng bệnh, chữa bệnh… Bao gồm 5 điều, chương IV có tên gọi: Chống khủng bố, quy định về phát hiện khủng bố; tiếp thụ, xử lý tin báo, tố cáo về khủng bố; biện pháp chống khủng bố; chống khủng bố tại trụ sở cơ quan ngoại giao, cơ quan đại diện lãnh sự nước ngoài, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế và chỗ ở của thành viên cơ quan này; chống khủng bố đối với cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam ở nước ngoài. Cùng với đó, luật cũng có một chương riêng (chương V) quy định về phát hiện tài trợ khủng bố, tiếp thu, xử lý tin báo, cáo giác về tài trợ khủng bố; nhận biết, cập nhật thông báo khách hàng và áp dụng biện pháp trợ thì; kiểm soát vận tải tiền mặt, kim loại quý, đá quý và công cụ chuyển nhượng qua biên giới. Luật Phòng, chống khủng bố còn có quy định cụ thể về nguyên tắc, nội dung, bổn phận cộng tác quốc tế trong phòng, chống khủng bố, được diễn tả trong chương VI. Bên cạnh đó, chương VII của luật cũng quy định nghĩa vụ của cơ quan quốc gia trong phòng, chống khủng bố. Theo đó, Chính phủ thống nhất quản lý quốc gia về phòng, chống khủng bố; Bộ Công an chịu nghĩa vụ trước Chính phủ, chủ trì, phối hợp với Bộ Quốc phòng, các bộ, ngành liên hệ; UBND các cấp trong khuôn khổ nhiệm vụ, quyền hạn của mình có bổn phận thực hành quản lý quốc gia về phòng, chống khủng bố. Sau khi luật có hiệu lực, Bộ Công an sẽ chủ trì giúp Chính phủ kết hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai thi hành đạo luật này. Những công việc trung tâm là tổ chức phổ biến, tuyên truyền, quán triệt nội dung của luật; xây dựng 4 nghị định của Chính phủ, 1 quyết định của Thủ tướng Chính phủ để quy định chi tiết, chỉ dẫn thi hành luật. MẠNH HƯNG |