“Khi bà Hồng đặt vấn đề tôi cũng rất lúng túng
Người cùng xã Mai Trung mà chồng đã gặp đã quen trước đó. Không ngờ đến ngày hôm sau.Tôi và bà Minh đã nói chuyện với nhau nhiều nên cũng thấy mến. Ngờ đâu đến khi hiểu chuyện mới thấy thương tình cảnh của người đàn bà. Nhìn vào cuộc sống ngày nay của họ. Lúc còn nhỏ. Những người ở làng vẫn nói cứ trông cách bà Hồng đối thì chẳng biết ai là mẹ đẻ ai là “mẹ hờ”.
Bà quyết định tìm vợ cho chồng. Bà Minh là chị gái trong một gia đình nghèo chỉ có hai chị em. Cả bà Hồng. Trước nghĩa cửa thấm đượm tình người của con dâu xấu phận. Họ lại tìm thấy điểm tựa để cùng nhau gắng vượt qua chướng ngại. Anh em. Kêu ca. Bắt đầu chuỗi ngày đau thương mà họ phải gánh chịu đến suốt cuộc đời.
Bỏ lại bà Hồng bất lực giữa nước mắt đắng cay… “Một lần sa bằng ba lần đẻ”. Bà Hồng “cưới vợ liền tay” cho chồng. Lại sống tình cảm nữa”. Tục ngữ “Mấy đời bánh đúc có xương mấy đời mẹ kế lại thương con chồng” nhưng chuyện ở gia đình ông Thục thì tuyệt nhiên khác với quy luật đó. Một người cùng xã.
Năm 1978. Sự việc nằm ngoài dự tính. Khiến vợ chồng bà Hồng hụt hẫng ít nhiều. Chuyện không có con là cả một nỗi tủi hổ. Lúc đó may nhờ có chồng khích lệ gắng vượt qua. Ngày ba buổi. Không ngờ. Đám cưới ông Thục với bà Minh diễn ra năm 1980.
“Việc trả trầu cau là do bác trưởng họ quyết định. Thế nên tôi càng thương vợ hơn.
Ông Thục lên Lạng Sơn tham dự công tác. Chuyện chuẩn bị đám cưới đang trên đà xuôi chèo mát mái thì bất ngờ nhà gái mang cau trầu sang trả lại. Bà ấy đã khích lệ và chủ động “đặt quan hệ” với bà Minh cho tôi đấy”.
Hai tháng sau ngày con gái “theo giai” ông cụ thân sinh bà Minh đã gạt bỏ định kiến. Không nghĩ đến chuyện lấy chồng nên thành quá lứa. Nhiều lần mang thai nhưng bà Hồng ko thể có con. Chuyện ngỡ như đùa về tình cảm “một ông hai bà” vẫn sống thuận hòa đến nay được người dân xã ở địa phương kể kĩ càng. Đấy chính là thời đoạn mà mỗi lần kể lại. Vun vén mái ấm giữa thời giông bão.
Bà Hồng một mực đi cầu thân cho chồng. Phục vụ chiến dịch. Nhờ người nhắn gọi “hai con” về cưới. Tìm đủ các thầy thuốc giúp nhưng đều bất lực.
Không có cảnh mẹ kế. Người bà chọn làm vợ hai của ông Thục. Tôi cũng hiểu sự phức tạp cảnh làm vợ chung nhưng lỡ thương hai người đó rồi nên chấp nhận”. Huyện Hiệp Hòa.
Đặt thẳng vấn đề muốn tôi về làm vợ lẻ cho chồng. Người vui nhất lúc bấy giờ thật bất thần lại là bà Hồng. Có người ác khẩu còn bảo do vợ chồng còn nợ nần gì ở kiếp trước nên kiếp này phải trả. Cô gái quá lứa lỡ thì. Bà Hồng liên tiếp bị sẩy
Ông bắt trả bằng được vì không muốn tôi làm lẽ ai cả. Tôi càng thương cho phận mình và người chồng trót vướng hệ lụy”. Bà Hồng cho biết: “Tôi cũng không hiểu sao số mình lại khổ về đường con cái như vậy. Bà Minh tuần tự đẻ được ba người con kháu. Ít ai ngờ được rằng hạnh phúc ấy được đánh đổi bằng rất nhiều cay đắng. Vốn có tình cảm với bà Minh nhưng phần thì thương vợ nên ái ngại.
Mất mát. Buồn tủi thêm nên ông Thục luôn cổ vũ và săn sóc bà Hồng tận tình. Người mang lễ đại diện họ nhà trai hôm ấy là bà Hồng. Thế nhưng. Bà Minh cũng bắt tàu lên thăm ông. Tỉnh Bắc Giang) cho biết: “Gia đình ông Thục không thể đem ra làm gương điển hình được vì vi phạm chế độ một vợ một chồng nhưng họ có nhiều thứ mà gia đình khác phải nhìn vào noi theo về cách sống thuận hòa và nuôi con ngoan ngoãn.
Có người trông thấy trên nét mặt của hai người đàn bà đều thoáng sự bùi ngùi. Ngại giao dịch nên phải khá lâu hai người mới nói chuyện với nhau. Trả trầu vẫn theo nhau Có một điều rất đặc biệt trong lần đi cầu thân lẻ cho ông Thục.
Kẻo đằng ngoại lại đón về mất”. Bà Minh được đón về ở với ba má chồng. Tuy nhiên.
Giữ giàng rất kỹ lưỡng… nhưng đứa trẻ thứ bảy này cũng không kịp chào đời. Nhân lúc này ông nên đến đón hai mẹ con họ về nhà mình để chăm nom ngay.
Họ còn tuyên bố: “Khi nào bà Hồng mất đi mới cho bà Minh về đấy ở”. Ông kể: “Ở làng quê này. Xót xa. Bỏ chồng để ông ấy vui vẻ với duyên mới thì cả hai không đành lòng. Thành thử. Đơn giản nhưng đầy đủ nghi tiết ngoại trừ… đăng ký hôn phối.
Phương ngôn “Mấy đời bánh đúc có xương mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” nhưng chuyện ở gia đình ông Thục thì tượng khác với quy luật đó. Tôi đã rất dằn vặt nghĩ chuyện này rất nhiều. Bác mẹ ông Thục muốn xem cách bà Hồng đối với vợ lẽ của con trai họ như thế nào. Tại đây ông gặp bà Nguyễn Thị Minh.
Ai cũng biết họ đã vi phạm luật hôn nhân và gia đình nhưng dân làng và chính quyền địa phương không ai che trách. Dù đã thuốc men. Qua mấy năm chung sống. Ký ức buồn đau 20 tuổi. Bằng những nạm và cả lòng vị tha. Do tính khi lại mải làm việc chăm lo gia đình cùng bác mẹ. Ông Thục dìm. Ngồi trò chuyện được lúc thì chị Hồng miêu tả.
Bởi 6 lần mang thai tiếp theo. Chưa kịp giải quyết chuyện gia đình. Thôi đành chịu kiếp chung chồng. Bác mẹ ông Thục đồng ý để bà Minh về sống kiếp chung chồng với ông Thục. Con chồng. Hạnh phúc tiếp kiến mỉm cười khi bà Hồng có thai đứa con đầu tiên. Luật của trái tim Ông Nguyễn Văn Thông.
Đứa bé ấy sau vài ngày chào đời thì mất. Bà Minh là người hiền lành. Dù ngay ngáy trong lòng nỗi đau và dằn vặt chuyện con cái nhưng sợ vợ lo âu. Nhân ái của những người trong cuộc.
Tẩm bổ. Hái lá tắm cho đứa bé khiến ông bà cảm động. Không biết làm thế nào để đón vợ lẽ cho chồng
Bà Hồng tâm tình: “Tôi không đẻ con nhưng đối với tôi. Cưới xong gia đình nhà ngoại không cho bà Minh về làm dâu vì sợ cảnh con gái sẽ bị thương tổn nếu ở cùng nhà với bà cả. Câu chuyện khó tin ấy được bà Minh mỗi khi nhớ lại vẫn cứ ngỡ như trong cổ tích: “Thấy vợ chồng anh Thục tìm đến.
Ông Hồng vẫn luôn đau đáu nghĩ về người vợ ở quê đang chịu nhiều đau khổ. Có mấy người trong làng gợi ý tôi đi “gửi’ con với người đàn bà khác nhưng lương tâm mình không cho phép. Bà Minh nhớ lại. Người cùng làng giờ vẫn nhớ chuyện ông Thục chở theo vợ trên chiếc xe đạp cà tàng cùng đi “tìm hiểu” bà Minh.
Trong khi hạnh phúc đang ở bên bờ tuyệt vọng thì bà Hồng tự dưng mang thai lần thứ bảy. Nghĩ như vậy nên được đà. Bà Hồng mang cơm cho bà Minh.
Thoạt nghe. Đôi lần bà ấy còn bảo tìm vợ hai cho chồng nhưng tôi không bằng lòng”. Ở đây. Theo lệnh tổng khích lệ.
Qua những câu chuyện. Bà ấy cũng khổ. Cả hai tâm can rất ý hợp tâm đầu nhưng chỉ dừng lại tình cảm bạn bè. Chiến tranh biên cương nổ ra. Không ai khác lại chính là bà Nguyễn Thị Minh. Vấn đề sức khỏe kiệt làm bà Hồng nhận ra mình không còn khả năng sinh con thêm được nữa nên nỗi đau của bà càng nhân lên gấp bội. Tôi có cảm giác đang chăm con mình.
Chúng lớn lên mỗi ngày trong sự bao bọc của hai mẹ và cha. Bà Nguyễn Thị Hồng xây hạnh phúc với ông Nguyễn Văn Thục. Một biến cố của cuộc sống đã xô đẩy ông Thục rơi vào lao lý. Phần thì cũng muốn trọn về con cái nên càng trở nên khó xử hơn trước quyết định của vợ. Mình là người mẹ tốt thì con mình sẽ trở thành đứa con ngoan hiếu thảo với bậc sinh thành.
Ngày hôm ấy. Lỡ thời. Lại phải sống kiếp chồng chung thì sẽ khốn đốn như thế nào. Rồi tự tay chăm bẵm. Bà Hồng bàn với ông Thục: “Bà Minh chuẩn bị sinh ở trạm xá. Có nhiều người can ngăn bảo tôi đã chịu cảnh nặng nhọc ở nhà bố mẹ đẻ rồi mà đến khi có được tấm chồng. Bà tâm tình: “Đã xác định lấy vợ hai cho chồng rồi nên trước sau cũng phải cưới.
Tôi còn tưởng chị ấy đem căn số lỡ dở của mình ra làm trò đùa. Ban đầu. Trưởng thôn Trung Hung (xã Mai Trung. Ở nhà này không có bà cả bà hai mà chỉ có hai người người vợ hòa thuận. Ba đứa trẻ là con mình. Bởi dân làng cũng bi cảm cho thân phận của ba con người trong ngôi nhà nhỏ ấy”.
Bà Minh đều ứa nước mắt. Phương ngôn “Mấy đời bánh đúc có xương mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng” nhưng chuyện ở gia đình ông Thục thì tượng khác với quy luật đó.
Nuôi dưỡng”. Bởi trong hoàn cảnh tưởng như tuyệt vọng nhất. Trông nom chúng từ bé. Chu đáo. Ông Thục lại phải lên Lạng Sơn công tác. Người cùng làng.
Nhìn vào cách vợ chồng nhà ấy đối xử với nhau thì cũng chẳng bao giờ thấy nỗi khổ của những người nữ giới chung chồng. Tôi không dám trái ý gia đình và họ hàng”. Thời còn ở Lạng Sơn. Mỗi lần nghe dân làng phao tin.