Thứ Năm, 8 tháng 8, 2013

Làm mới Úc thoát khỏi khủng hoảng nhờ “gót chân Achilles”

Tiện tặn hộ gia đình ở mức thấp của Úc, hệ thống nhà băng thua kém tranh và sự phụ thuộc quá nhiều vào những mặt hàng xuất khẩu căn bản như than đá và quặng sắt, vốn được cho là những nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế, lại giúp quốc gia này tránh được cơn bão suy thoái toàn cầu.

Trong khi nhiều nền kinh tế lớn đi xuống thì Úc lại đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế 0,4% trong quý I/2009. Cựu Thống đốc nhà băng Dự trữ Úc Ian Macfarlane, hiện là Giám đốc Australia and New Zealand Banking Group (ANZ), là người trước nhất đưa ra nhận định rằng, chính mức tùng tiệm quá “khiêm tốn” của Úc và hệ thống ngân hàng cạnh tranh kém đã giúp cho nền kinh tế vượt qua được suy thoái.

Hệ thống nhà băng: sức cạnh tranh kém

Macfarlane lý giải, chính khả năng cạnh tranh kém và mức sinh lợi thấp đã giúp các nhà băng Úc tránh được cái bẫy tài chính mà các đối thủ nước ngoài đã mắc phải. Đơn giản là các ngân hàng không có dư dả về tài chính để lao vào các canh bạc đầu tư rủi ro cao như các nhà băng rủng rỉnh tiền ở Mỹ hoặc châu Âu.

Ngoại giả, theo ông Macfarlane, chính sách xưa nay của Chính phủ trong việc cấm các hoạt động sáp nhập giữa 4 ngân hàng lớn trong nước gồm ANZ, Commonwealth Bank of Australia, National Australia Bank (NAB) và Westpac Banking Corporation cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng “an phận” hoạt động ở thị trường trong nước và không bị thâu tóm.

Mục đích ban hành chính sách trên (được gọi là chính sách “4 trụ cột”) là bảo đảm sự cạnh tranh trên thị trường ngân hàng, nhưng lại bị chỉ trích là quá hủ lậu, khiến các nhà băng trong nước kém sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế do không thể mở rộng quy mô qua con đường sáp nhập. Thế nhưng, giờ chính sách này được xem là hàng rào phòng thủ hiệu quả trước cơn suy thoái kinh tế toàn cầu.

Tuy nhiên, theo số liệu của tổ chức đánh giá tín nhiệm Fitch, các nhà băng này có một điểm yếu lớn, đó là các món nợ ở nước ngoài chiếm tới hơn 40% tổng sản phẩm nội địa (GDP). Thế nhưng, Chính phủ Úc đã can thiệp bằng cách bảo đảm mọi khoản nợ nước ngoài của các nhà băng này. Và với việc các món nợ được Chính phủ bảo đảm, tài sản thì không “dính” vào các khoản vay dưới chuẩn, các ngân hàng này đang ở vị thế rất thuận tiện. Quả tình, “Bộ Tứ” ANZ, Commonwealth Bank of Australia, NAB và Westpac hiện là 4 trong số 12 nhà băng hàng đầu thế giới “nhờ” sự sụp đổ gần đây của các ngân hàng lớn.

Hà tằn hà tiện hộ gia đình thấp

Các hộ gia đình Úc để dành khoảng 2,7% thu nhập trong năm tài chính kết thúc vào tháng 3.2009, tăng từ mức 1,4% của 12 tháng trước đó, nhưng vẫn thuộc hàng thấp so với các nước khác. Điều đó có nghĩa, các nhà băng không đạt mức tăng trưởng nhanh về vốn huy động và từ đó, ít có khuynh hướng đầu tư chúng ra nước ngoài.

Tiền gửi khách hàng hiện chỉ chiếm 42% nguồn vốn của các nhà băng Úc trong khi tại Đức (vốn đang chìm sâu hơn vào suy thoái và Chính phủ Đức đã phải bơm vốn cứu nguy cho nhiều nhà băng), số tiền gửi tại một số tổ chức cho vay lại ở mức cao và tăng với tốc độ nhanh hơn rất nhiều.

Nhà băng quốc doanh lớn thứ 2 của Đức BayernLB, chả hạn, đã đầu tư vào các chứng khoán đảm bảo bằng tài sản và đã thua lỗ rất nặng nề. Trong năm qua, nhà băng đã lỗ 6,8 tỉ USD do giá trị các khoản đầu tư giảm mạnh.

Chuyên gia kinh tế Úc Ian Harper, trong suốt cuộc khủng hoảng, đã ví von rằng, các ngân hàng Úc giống như một ông già sống trong một ngôi nhà không có điện và luôn tự hào rằng mình chưa bao giờ phải khổ sở vì chuyện điện đóm. Thế nhưng, có vẻ như các nhà băng Úc mới là người thắng lợi sau cùng, chứ không phải các ngân hàng lớn ở Mỹ hay châu Âu. Thay vì trở thành kẻ lạc hậu bị bỏ lại đằng sau, các ngân hàng Úc đang thoát khỏi khủng hoảng với bảng cân đối kế toán tương đối tốt, ra công huy động vốn và tỏ ra hứng với việc thâu tóm các đối thủ đang gặp khó khăn.

Các nhà quản lý tại các nước khác thậm chí muốn dự vào thị trường ngân hàng Úc, nơi những quy định ràng buộc về sáp nhập và sự cạnh tranh có kiểm soát không còn bị xem là những nhân tố kìm hãm kinh tế.

“Các nhà quản lý khắp thế giới đang xem Úc là một điểm đến hấp dẫn. Bởi lẽ, trong bối cảnh khủng hoảng, ai ai cũng đổ xô tìm đến một thị trường có cơ chế quản lý chặt đẹp hơn”, Brian Redican, chuyên gia kinh tế thuộc ngân hàng Macquarie Bank, nhận định.

Phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu

Úc còn có một “gót chân Achilles” khác. Đó là sự phụ thuộc quá lớn vào các mặt hàng xuất khẩu cơ bản như năng lượng và thiếu các nhà máy lớn chuyên sinh sản các mặt hàng cao cấp. Thế nhưng, điểm yếu này lại trở nên thế mạnh trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

0,4%

Mức tăng trưởng kinh tế của Úc trong quý I/2009.

Thống đốc ngân hàng Dự trữ Úc Glenn Stevens, trong một bài phát biểu mới đây, cho biết, những quốc gia xuất khẩu các sản nhân phẩm trị cao như Nhật Bản và Đức là những đối tượng bị tác động nặng nề nhất bởi suy thoái kinh tế toàn cầu. Tại châu Á, các nền kinh tế chuyên sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như máy tính và tivi màn hình phẳng cũng bị ảnh hưởng nặng. Nhưng tình hình lại diễn biến khá tiện lợi ở phần đáy của chuỗi giá trị, tức các mặt hàng cấp thấp. Trong khi đó, các mặt hàng nông phẩm và năng lượng của Úc chiếm xấp xỉ 50% tổng lượng hàng xuất khẩu.

Thực tiễn là trong khi các nước xuất khẩu lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc điêu đứng do nhu cầu thế giới giảm đối với các mặt hàng tiêu dùng (đặc biệt các sản phẩm cao cấp) thì Úc vẫn xuất khẩu một lượng lớn hàng hóa với giá cao, Thống đốc Stevens cho biết (nhu cầu đối với năng lượng và nông sản vẫn tăng cao dù trong bối cảnh suy thoái).

Vậy có phải bí quyết “đánh bại” khủng hoảng là ít tằn tiện hơn, hạn chế sự cạnh tranh và đừng mạo hiểm trèo cao trong bậc thang của chuỗi giá trị?

Ông Redican thuộc Macquarie Bank, khẳng định: Câu trả lời là không. Nhưng bí quyết trên đã đích thực phát huy tác dụng khi phối hợp với biện pháp kích cầu của Chính phủ, chính sách tiền tệ thận trọng và các hoạt động cho vay có chừng đỗi ở thị trường thế chấp trong nước.

“Tôi không nghĩ rằng, các yếu tố trên là điều kiện đủ để giúp nền kinh tế Úc không rơi vào suy thoái. Nhưng nó giúp giảm đáng kể những tác động của cuộc suy thoái toàn cầu lên nền kinh tế”, ông Redican nói.

(Theo Reuters)

THẾ GIỚI TUẦN QUA

Tụng kinh bằng tiếng Anh

Các trường đại học, cao đẳng Trung Quốc đang tổ chức các khóa đào tạo tiếng Anh cho các nhà sư. Hiện đã có 22 sư thầy từ 10 tỉnh tốt nghiệp khóa học trước nhất của Đại học Nghiên cứu Quốc tế Thượng Hải. Mục đích của chương trình là giúp các đồ đệ có thể truyền bá đạo Phật Trung Quốc ra thế giới. Dự tính, các ngoại ngữ khác như Pháp, Hàn, Nhật cũng sẽ được phổ cập trong mai sau.(Theo China Daily)

Hoàng tộc Anh hết tiền tiêu

Ngân quỹ của Nữ hoàng Anh sẽ cạn vào năm 2012, năm kỷ niệm 60 năm nữ vương trị vì, trừ phi Chính phủ Anh rót thêm tiền. Dù rằng tổng tổn phí dành cho bộ máy quân chủ đã tăng thêm 1,5 triệu bảng Anh, lên 41,5 triệu bảng trong năm tài chính vừa qua, nhưng các phí tổn như trả lương, tiệc tùng, du lịch cho hoàng thất, tu bổ lâu đài… đã khiến cho quỹ dự trữ 35 triệu bảng hiện nay co lại còn 14 triệu bảng.

(Theo Telegraph)

50 quan chức cấp cao châu Á giám sát cuộc bầu cử tổng thống Indonesia

50 quan chức cấp cao ở khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam, sẽ được mời để giám sát cuộc bầu chọn tổng thống Indonesia vào ngày 8.7.2009. Chương trình có tên gọi Khách mời Bầu chọn Indonesia (IEVP). Theo đó, khách mời sẽ tham gia bàn thảo về những cách tân và sự phát triển chính trị của Indonesia.

(Theo Xinhua)

Michael Jackson mất, Quỹ lương hưu Hà Lan có lợi

Sự ra đi của ông vua nhạc Pop Michael Jackson đã mang lại món lợi lớn cho Quỹ Lương hưu ABP (quỹ chuyên đầu tư vào âm nhạc của Hà Lan). Năm ngoái, quỹ này đã mua bản quyền các bài hát của Michael Jackson và cứ mỗi khi CD được phát hành hay đài phát thanh dùng bản nhạc của Michael Jackson mà quỹ này sở hữu thì phải trả tiền.

(Theo Reuters)

DIỆP THỦY